Công nghệ RealVideo

Phiên bản đầu tiên của RealVideo được công bố vào năm 1997 và dựa trên codec H.263. Vào thời điểm đó, RealNetworks phát hành một công báo nói rằng họ đã cấp phép cho công nghệ ClearVideo của Iterated Systems và đưa nó vào làm RealVideo Fractal Codec[1]. Tuy nhiên, sự hỗ trợ ClearVideo đã im lặng biến mất trong phiên bản tiếp theo của RealVideo.

RealVideo tiếp tục sử dụng H.263 cho đến RealVideo 8, khi công ty chuyển sang một codec video. Các codec RealVideo được xác định bởi mã bốn ký tự. RV10 và RV20 là codec dựa trên H.263. RV30 và RV40 là các định dạng thương mại của RealNetworks. Những định danh này đã là nguồn gốc của một số nhầm lẫn, khi người ta cho rằng RV10 là RealVideo định dạng 10, trong khi thực ra nó là phiên bản đầu tiên của RealVideo. RealVideo 10 sử dụng RV40.

RealVideo có thể chơi từ tập tin RealMedia hoặc luồng truyền qua mạng dùng Real Time Streaming Protocol (RTSP), một giao thức chuẩn dành cho tập tin xem trực tuyến do IETF phát triển. Tuy nhiên, RealNetworks chỉ dùng RTSP để thiết lập và quản lý kết nối. Dữ liệu video thực sự được gửi qua giao thức thương mại RDT. Chiến thuật này tạo ra nhiều lời chỉ trích vì nó khiến khó sử dụng RealVideo với phần mềm chơi nhạc và phần mềm máy chủ khác. Tuy nhiên, dự án mã nguồn mở MPlayer đã phát triển được phần mềm có thể chơi tập tin phát trực tuyến RDT.

Để thuận lợi cho việc truyền tập tin thời gian thực, RealVideo (và RealAudio) thường dùng mã hóa tỷ lệ bit cố định, để cùng lượng dữ liệu sẽ được truyền qua mạng mỗi giây. Gần đây, RealNetworks đã giới thiệu dạng tỷ lệ bit thay đổi gọi là RealMedia Variable Bitrate (rmvb). Điều này cho phép chất lượng video cao hơn, tuy nhiên định dạng này ít phù hợp với truyền tải trực tuyến vì nó khó dự đoán dung lượng mạng mà một luồng video cần. Video với chuyển động nhanh hoặc đổi cảnh nhanh sẽ cần tỷ lệ bit cao hơn. Nếu tỷ lệ bit của một luồng video tăng nhanh chóng, nó có thể vượt quá toóc độ mà tại đó dữ liệu có thể truyền qua mạng, dẫn tới hư hỏng video.